UNG THƯ GAN tin tức tại bệnh ung thư

Đánh giá

UNG THƯ GAN tin tức tại bệnh ung thư

 

ĐẠI CƯƠNG

1. Dịch tễ học

– Pisani và cộng sự ghi nhận tử trận do ung độc gbình yên cầu trong năm 1990 là 427.000 người. Ung thư gan là nguyên nhân gây tử trận đứng hàng thứ tư trong các bệnh ung độc và đứng hàng thứ ba ở nam giới. Ung thư gan là luận điểm thường xuyên ở các giang sơn đang sản xuất . Tỷ lệ tử trận do ung độc gan cao đặc biệt là ở Trung Quốc (ước tính 34,7/100.000 ở nam và 11,1/100.000 ở nữ giới ), và chiếm 53% tử trận do ung độc gan của toàn cầu . Ghi nhận ung độc quần thể năm 1997 tại TP. Hồ Chí Minh cho thấy xuất độ chuẩn theo tuổi của ung độc gan ở cả hai giới là 40,5/100.000 (ở nam là 38,2; ở nữ là 8,3).

– Tuổi thường xuyên ung độc gan ở châu Phi là 30 – 39 tuổi, ở Trung Quốc là 45 – 54 tuổi, ở Nhật là 50 – 59 tuổi, ở Mỹ là 55 – 64 tuổi. Nhìn chung, ung độc gan thường xuyên ở nam hơn nữ, tuy nhiên tỷ trọng nam/nữ thường tốt hơn ở những vùng có bệnh ung độc gan phổ biến , như ở Trung Quốc tỷ trọng nam : nữ là 3 : 1.

– Bệnh ngày càng tăng dần theo tuổi, thường xuyên ở lứa tuổi 50 – 60. Ung thư nguyên bào gan gặp ở trẻ dưới 2 tuổi

2. Yếu tố nguy cơ.

– Viêm gan siêu vi (VGSV) và xơ gan : ở vùng Nam Á, viêm gan siêu vi B thường xuyên hơn viêm gan siêu vi C . Tại Trung Quốc khoảng 80% người bệnh ung độc gan có hiện diện viêm gan siêu vi B và chỉ có 10 – 30% có nhiễm viêm gan siêu vi C. Trái lại, ở Nhật, Pháp và Ý, viêm gan siêu vi C tương tác đến ung độc gan khoảng 60 – 80%.

– Hóa chất sinh ung, không giống nhau là Alflatoxin B1 (AFB1) có trong thức ăn như đậu phộng và bắp. Các số liệu cho thấy có sự liên quan rõ giữa tử trận do ung độc gan và AFB1 và thực nghiệm trên động vật cho thấy AFB1 được khẳng định gây ra ung độc gan.

– Ô nhiễm nước uống ở vùng nông thôn Trung Quốc nơi có nhiều ung độc gan, có sự tương tác giữa ung độc gan và nước uống ô nhiễm. Những người uống nước mương rãnh bị ung độc gan tốt hơn những người tiêu dùng nước sạch (ở sâu dưới đất). Gần đây, microcystin được tìm thấy trong mương rãnh, đã được công nhận là tác nhân gây ung độc gan.

– Rượu, thuốc lá, di truyền và những nhân tố khác cũng có tương tác đến bệnh. Ở Ý, nguy cơ có thể gây ra ung độc gan đứng đầu là rượu 45%, thứ hai là viêm gan siêu vi C 36% và thứ ba là viêm gan siêu vi B 22%. Bệnh nhiễm sắc tố sắt cũng được ghi nhận là nhân tố nguy cơ của ung độc gan. Bệnh nhân vừa bị xơ gan do uống rượu, vừa bị nhiễm viêm gan siêu vi B, viêm gan siêu vi C có tỷ trọng mắc ung độc gan trong 3 năm – 5 năm – 10 năm là 1 3% – 41% – 81%. Dường như đó các tỷ trọng này ở người bệnh không nghiện rượu bị xơ gan do viêm gan siêu vi C là 7% – 23% – 57%. Dường như còn có xơ gan do viêm gan thoái hóa mỡ, ứ mật nguyên phát, các bệnh lý chuyển hóa bẩm sinh và các độc chất khác.

– Tất cả các nhân tố đó gây ra sự sản xuất ung độc gan. Sự tương tác lẫn nhau giữa viêm gan siêu vi B, viêm gan siêu vi C, Alflatoxin, rượu và tính di truyền có thể rất trọng yếu . Như thế với phép tắc ăn lương thực, thực phẩm tươi sống không bị nhiễm nấm mốc, song song dùng vắc xin chủng ngừa viêm gan siêu vi B, giảm hay không nghiện rượu thì có thể ngăn ngừa hoặc giảm tỷ trọng bị bệnh ung độc gan.

– Trong ung độc gan có sự khuếch đại các đoạn gen 1q (57,1%), 8q (44,6%), 6p (22,3%) và 17q (22,2%), ngược lại mất các đoạn gen 8p (38%), 16q (35,9%), 4q (34,3%), 17p (32,1%) và 13q (26,2%). Mất các đoạn 4q, 16q, 13q và 8p có tương tác đến nhiễm viêm gan siêu vi B. Bệnh có tương tác đến gen sinh ung độc (như MYC trên 8q24) và gen đè nén bướu (RB1 trên 13q14). Một số gen sinh ung khác cũng đang được nghiên cứu và phân tích như FZD3, WISP1, SIAH-1 và AXIN2, các tác nhân điều biến đường dẫn truyền dấu hiệu WNT.

3. Diễn biến thiên nhiên

– Khoảng 70% các tình huống ung độc gan nguyên phát xảy ra trên nền xơ gan do bất kỳ nguyên nhân nào. Bướu thường xuất hiện dưới dạng một khối riêng biệt hoặc một khối lớn có các tổn thương vệ tinh bao quanh , thường xuất hiện trên nền xơ gan. Carcinôm tế bào gan có thiên hướng xâm lấn mạnh vào hệ thống tĩnh mạch cửa và các phân thùy gan còn lại.

– Thường cho di căn đến hạch vùng, phổi, phúc mạc, tuyến thượng thận, xương và não.

CHẨN ĐOÁN

1. Tầm soát

– Chương trình tầm soát phát hiện sớm ung độc gan đã được bàn cãi trong nhiều thập niên qua. Ở Trung Quốc, xét nghiệm định lưỡng AFP trong huyết thanh và siêu thanh được dùng để tầm soát các nhóm nguy cơ cao trong dân số nhằm phát hiện các ung độc gan nhỏ có thể phẫu thuật được (kích thước bé hơn 5cm). Sống còn 5 năm sau phẫu thuật các ung độc gan nhỏ cao gấp hai lần các ung độc gan lớn (60% đối chiếu 30%).

2. Tình huống lâm sàng

– Tình huống sớm: Thường do siêu thanh tình cờ phát hiện.

 – Tình huống thường xuyên :

+ Thường là đau tức tức giận vùng hạ sườn phải, đôi lúc lói ra sau lưng hoặc lan lên vai phải. Đau thượng vị hoặc hạ sườn trái khi bướu ở thùy trái. Thường đau âm ỉ, nhưng đôi lúc đau dữ dội nếu bướu vỡ.

+ Đầy bụng, chán ăn, sụt cân, mỏi mệt , bụng lớn do bướu gan hoặc báng bụng gặp ở giai đoạn khá chậm .

3. Triệu chứng nhận thể:

– Khám lâm sàng có thể sờ chạm gan to, lách to, báng bụng.

– Sốt, suy kiệt cũng có thể gặp trên lâm sàng.

-Dường như còn có một số biểu hiện khác như vàng da, sao mạch, tuần hoàn bàng hệ, nữ hóa tuyến vú, teo dịch hoàn , phù ngoại vi,

4. Triệu chứng cận lâm sàng

– Xét nghiệm sinh hóa – Dấu ấn sinh vật học bướu

+ Có các thay đổi do hội chứng cận ung độc như giảm đường huyết, tăng hồng huyết cầu , tăng calci máu, tăng cholesterol máu, rối loạn fibrinogen máu…

+ AFP là chất đánh dấu bướu tốt nhất của ung độc gan. AFP trong huyết thanh trên 20mg/l được ghi nhận trong 60 – 70% tình huống người bệnh ung độc gan ở Đông Nam Á. AFP trên 500mg/l là chẩn đoán kiểm tra ung độc gan. Trường hợp AFP > 20mg/l và £ 500mg/l thì nên suy nghĩ và kiểm tra siêu thanh . AFP tăng cao cho tiên đoán xấu hơn. Dường như , AFP còn dùng để theo dõi sau điều trị .

AFP còn tăng trong một số bệnh gan mạn khác, ung độc tế bào mầm và ung độc tụy.

+ Xét nghiệm chức năng gan cần thực hiện nhằm cho cả việc chẩn đoán và chọn lựa phép tắc điều trị . Tình trạng tăng ALT hậu phẫu làm tăng nguy cơ tái phát.

Xét nghiệm viêm gan siêu vi B và viêm gan siêu vi C rất trọng yếu trong chẩn đoán ung độc gan và rất bổ ích trong chẩn đoán phân biệt ung độc gan với các bệnh lý lành và ác tính trong gan nơi có viêm gan siêu vi B, viêm gan siêu vi C đang lưu hành.

+ Giảm tiểu cầu do lách to thường xuyên , thực trạng suy giảm miễn dịch tương tác đến sự phát triển của bệnh.

 – Hình ảnh học:

+ Siêu âm là phép tắc không xâm lấn thường dùng có thể phát hiện được tổn thương nhỏ 1cm. Một vùng giảm âm (echo kém) với đường viền (halo) bao quanh là hình ảnh thường xuyên của ung độc gan nhỏ. Trong ung độc gan lớn, vùng tổn thương được quan sát thấy tăng âm, giảm âm hoặc kết hợp cả hai. Rất có thể quan sát thấy nốt vệ tinh bao quanh tổn hải quan cũng tương tự thực trạng thuyên tắc tĩnh mạch cửa, tĩnh mạch gan, tĩnh mạch chủ dưới, bướu xâm lấn đường mật và hạch lymphô di căn.

+ Siêu âm Doppler màu có thể giúp quan sát rõ huyết mạch vùng tổn thương . Siêu âm trước mổ giúp cho phẫu thuật viên chọn lựa phép tắc điều trị . Siêu âm trong lúc mổ giúp phẫu thuật viên chọn phép tắc phẫu thuật , quyết định mở rộng phẫu thuật cắt bướu và tránh gây tổn thương huyết mạch và đường mật trọng yếu . Siêu âm còn giúp triết lý cho sinh thiết.

+ CT scan là 1 phép tắc chẩn đoán thường qui trong ung độc gan. CT scan xoắn ốc cho thấy sự tương phản rõ trong pha động mạch và tĩnh mạch. Lipiodol CT scan có thể giúp phát hiện ung độc gan nhỏ 0,5cm. Tuy nhiên, độ nhạy của phép tắc này không cao và có thể gặp dương tính giả.

+ MRI gần giống như CT nhưng không dùng bức xạ, giúp chẩn đoán phân biệt ung độc gan nhỏ và bướu huyết mạch . MRI động mạch ký giúp thấy được hệ huyết mạch trong và ngoài gan dọc theo tĩnh mạch chủ dưới, tĩnh mạch cửa và tĩnh mạch trên gan.

+ Chụp khảo sár 99Tc-PMT (N-pyridoxyl-5-methyltryptophan) là 1 phép tắc chẩn đoán hình ảnh gan mật, rất bổ ích trong chẩn đoán bướu tuyến của gan trong các pha trễ.

+ Chụp khảo sát bức xã miễn dịch dùng các kháng thể đơn dòng có gắn đồng vị phóng xạ.

+ Giá trị của phép tắc PET vẫn chưa được để ý kỹ. PET sử dụng fluorin-18-fluorodeoxyglucose rất bổ ích trong trình diễn hiệu quả điều trị , nhưng độ nhạy với ung độc gan thấp.

+Chụp huyết mạch đồ bổ ích trong những tình huống xâm lấn .

– Tế bào học – phẫu thuật bệnh

+ Chọc hút tế bào bằng kim nhỏ hay sinh thiết bằng kim móc với hướng dẫn của siêu thanh cho phép chẩn đoán trước mổ, tuy nhiên có nguy cơ gieo rắc tế bào ung độc và chảy máu.

 5. Chẩn đoán phân biệt

Khi xét nghiệm hình ảnh cho thấy một vùng giảm âm trong gan, cần phân biệt với các bệnh ung độc gan thứ phát, bướu huyết mạch gan, bướu lành tuyến của gan, viêm giả bướu, tăng sản dạng nốt (FNH) và tăng sản tuy61n (AH), sarcôm huyết mạch hoặc lymphôm, áp xe gan.

6. Phân loại giai đoạn bệnh.

Bảng 1. Phân độ TNM

T: Bướu nguyên phát

Tx: Chưa kiểm tra được bướu nguyên phát

T0: Không có bằng cớ bướu nguyên phát

T1: Bướu riêng biệt không xâm lấn huyết mạch

T2: Bướu riêng biệt xâm lấn huyết mạch , nhiều bướu, kích thước < 5cm

T3 : Nhiều bướu > 5cm hoặc bướu xâm lấn nhánh lớn tĩnh mạch cửa hoặc tĩnh mạch gan

T4 : Bướu xâm lấn các cơ quan lân cận ngoài túi mật hoặc xuyên thủng phúc mạc tạng

N: Hạch vùng

Nx: Hạch vùng không trình diễn được

N0: Không di căn hạch vùng

N1: Di căn hạch vùng

M: Di căn xa.

M0 : Không di căn xa.

 M1: Có di căn xa

Bảng 2. Xếp giai đoạn

Ia 

T1, N0, M0

II

T2, N0, M0

IIIa

IIIb

IIIc

T3, N0, M0

T4, N0, M0

T bất kỳ , N1, M0

IV

T và N bất kỳ , M1

7. Các nhân tố tiên đoán bệnh

– Giai đoạn bệnh

– Phương pháp điều trị

– điểm sáng sinh vật học

– Giới tính

– Nhiễm HBV, HCV

– Chức năng gan

Tại Mỹ sống còn 5 năm của bệnh ung độc gan chỉ tăng từ 4% (1974 – 1976) lên 6% (1986 – 1993) ở người da trắng, và từ 1% đến 4% ở người da đen. Ở Thượng Hải, tỷ trọng sống còn 5 năm của ung độc gan là 4,45 từ 1988 – 1991.

ĐIỀU TRỊ

 1. Điều trị không phẫu thuật

– Tiêm cồn xuyên da (PEI – Percutaneous Ethanol Injection)

+ Tiêm 2,5ml cồn 99% vào bướu bằng một kim nhỏ có nhiều lỗ kề vai tùy theo kích thước bướu. Thủ thuật này có hiệu quả tương đương với phẫu thuật trong tình huống bướu có kích thước £ 3cm và không có nhiều hơn 3 khối bướu.

+ Chống chỉ định khi người bệnh không hiệp tác hoặc rối loạn đông máu nghiêm trọng . Không tiêm cồn vào trong huyết mạch và ống mật để tránh hoại tử gan nên suy gan, vàng da.

 -Hóa trị – thuyên tắc huyết mạch bướu qua đường động mạch

+ Liệu pháp TACE (Transcatheter Arterial Chemoembolization) được dùng phổ biến đối với ung độc gan không thể cắt bỏ. Khối bướu thường tăng sinh huyết mạch và hầu như được nuôi dưỡng bởi máu động mạch. Do đó bướu sẽ hoại tử giả dụ cắt đứt cung ứng máu động mạch.

+ Không chỉ định làm TACE cho người bệnh khi bilirubin toàn phần trên 3mg/dl vì có thể gây rối loạn nghiêm trọng chức năng gan. Khi bilirubin toàn phần trên 2mg/dl, vùng thuyên tắc chỉ nên giới hạn trong một hoặc hai phân thùy (theo cách chia của Couinaud). Bướu đã gây thuyên tắc nhánh chính tĩnh mạch cửa là 1 chống chỉ định của TACE.

+ Phương pháp chuẩn của TACE là luồn ống thông nhỏ qua động mạch đùi, rồi hướng tới động mạch gan chung theo khoa học Seldinger. sau đó , ống thông bé hơn được đưa vào những nhánh động mạch gan phân thùy hay hạ phân thùy bằng hệ thống ống thông lưng trục. Nhũ tương gồm lipiodol, urografin và thuốc chống ung độc được bơm vào, theo sau bằng những khối gelfoam được tẩm thấm những tác nhân hóa trị liệu. Hiếm khi người ta dùng chất thuyên tắc riêng biệt mà thường dùng kèm hóa chất chống ung độc .

+ Những biến chứng phổ biến nhất bao gồm đau thượng vị (59%) và sốt (47%). Loét bao tử và tá tràng, viêm tụy, viêm ống mật có thể xảy ra khi chất thuyên tắc chạy vào trong những động mạch nuôi dưỡng các cơ quan này. Takayasu và cộng sự ghi nhận 53% người bệnh viêm ống mật sau TACE. Biến chứng này có thể ngăn ngừa nếu đầu của catheter được đặt xa đầu tận của nhánh động mạch túi mật.

– Làm đông bướu bằng sóng viba (MCT)

+ Làm đông bướu bằng sóng viba (MCT – Microwave Coagulation Therapy) lúc đầu dùng để cầm máu trong phẫu thuật gan vào những năm 1950. Ngày nay liệu pháp này có chức năng trong điều trị ung độc gan. Sóng vi ba được đưa vào khối bướu hoặc sát bướu qua một kim 21 dưới sự hướng dẫn của siêu thanh . Sóng vi ba được phát ra trong 20 giây với chu kỳ 15 phút để triển khai đông hoàn toàn khối bướu. MCT có hiệu quả khả quan đối với những bướu không cắt được và có thể thực hiện qua nội soi ổ bụng thsát hại .

 – Phẫu đông lạnh

Phẫu đông lạnh làm tàn phá khối bướu bằng nhiệt độ dưới 00C. Để thực hiện liệu pháp này cần phải mổ bụng thsát hại và đặt vào khối bướu những ống thông lớn phát ra khí lạnh. Liệu pháp này phục vụ những người bệnh không thể cắt bướu được.

 2. Mổ Bụng

– Mổ Bụng cắt gan chia làm 2 nhóm lớn (1) phẫu thuật cắt gan điển hình (phẫu thuật cắt một phần nhu mô gan được giới hạn bởi các mặt phẳng theo các rãnh phẫu thuật học, đây là cắt gan phải hoặc cắt gan trái), (2) phẫu thuật cắt gan không điển hình (cắt một phần nhu mô gan không tương ứng với phân chia phẫu thuật học, do vậy mặt cắt không đi qua các mặt phẳng phẫu thuật học).

– Mổ Bụng cắt gan có kiểm soát huyết mạch tại cuống gan và phẫu thuật cắt gan chuyển đổi (phẫu thuật cắt gan có kiểm soát huyết mạch trong nhu mô) được xem là cắt gan điển hình .

– Mổ Bụng cắt gan điển hình gồm có cắt gan phải, cắt gan trái và cắt gan phải mở rộng .

 – Cắt gan phải: Cắt hạ phân thùy V, VI, VII, VIII, đường cắt qua khe giữa hay là cắt phân thùy sau và phân thùy trước.

– Cắt gan trái: Cắt hạ phân thùy II, III, IV hay là cắt phân thùy giữa và phân thùy bên.

– Cắt gan phải mở rộng (cắt thùy phải): Cắt hạ phân thùy IV, V, VI, VII và VIII, hay là cắt 3 phân thùy (phân thùy sau, trước và giữa).

– Mổ Bụng cắt gan không điển hình là phẫu thuật cắt các phân thùy mang bướu và cắt một phần phân thùy kề vai để hứa hẹn giới hạn bình yên về mặt tế bào học hoặc phẫu thuật cắt gan giới hạn hay bóc bướu.

 – Cắt bướu giới hạn và bóc nhân

+ Với người bệnh ung độc gan kèm xơ gan, hưởng thụ phải bảo tàng chủ mô gan nhằm tránh nguy cơ suy gan sau mổ. Cắt bướu giới hạn và bóc nhân là những phép tắc chọn lựa chính cho ung độc gan kèm xơ gan.

+Trong cắt gan giới hạn, diện tích gan không ung độc cùng với bướu được cắt thay đổi tùy theo địa điểm bướu. Cắt bướu vùng trọng tâm hưởng thụ loại bỏ nhu mô gan nhiều hơn đối chiếu bướu nằm nông.

 -Cắt phân thùy và hạ phân thùy: Tế bào ung độc gan thâm nhiễm tĩnh mạch cửa và lan tràn theo hệ cửa xuất hiện những ổ di căn trong nhu mô gan. Do đó cắt bỏ theo phân chia phẫu thuật và theo cấu tạo tĩnh mạch cửa có phân mục bỏ những ổ ung thư vô phát hiện được nằm tản mác xuất hành từ bướu nguyên phát thông qua ệ tĩnh mạch cửa. Mổ Bụng cắt bỏ như vậ có thể cải thiện sống còn của người bệnh . Những phân thùy gan trái của Couinaud (hạ phân thùy II-III-IV) có thể kiểm tra bằng trình diễn thay đổi màu sắc sau khi cột những nhánh động mạch và tĩnh mạch cửa vùng rốn gan. Những phân thùy trước (hạ phân thùy V-VIII) sau phải (hạ phân thùy VI- VII) cũng thay đổi màu sắc bằng phép tắc gần giống đối với vùng rãnh cửa bên phải.

 3. Hóa trị

Hóa trị toàn thân bằng các hóa chất như 5-FU, doxorubicin và cisplatin trong khoảng 6 tháng với thành tựu đáp ứng là 20%.

-Đơn trị liệu:

+ Capecitabine:

Capecitabine 1000 mg/m2

Dùng đường uống

Ngày 1 – 14

Chu kỳ 21 ngày

+ Doxorubicin:

Doxorubicin 60 mg/m2

Dùng đường tĩnh mạch

Chu kỳ 21 ngày

+ Soratinib:

Soratinib ( Nexavar 200mg ): 2 viên * 2 / ngày

 Dùng đường uống liên tục

Chỉ định: U gan to, giai đoạn tiến xa

Lưu ý: chi phí cao

– Đa trị liệu

+ 5FU – Leucovorin:

Hoạt chất

Liều dùng

Thời gian sử dụng

5-Fluorouracil

370 mg/m2

Ngày 1-5

Leucovorin

200 mg /m2

Ngày 1-5

+TACE + Zadaxin

Zadaxin 1.6 mg  10 ngày liên tục mỗi ngày 1 lọ, sau đó 2 lọ mỗi tuần / 6 tháng.

+ TACE + Soratinib

Soratinib ( Nexavar 200mg ): 2 viên * 2 / ngày

Lưu ý: chi phí cao, uống khi người bệnh xuất viện.

4. Xạ trị

– Trước đây, xạ trị hiếm có chỉ định vì gây ra những tổn thương nghiêm trọng mô gan không ung độc . Sự đoàn kết xạ trị và những phép tắc điều trị khác như TACE chỉ có giá trị thí điểm .

– Hiện nay phụ thuộc khoa học xạ trị sát hợp mô đích, nghiên cứu và phân tích xạ trị với liều cao (45 – 90Gy) vào từng vùng khu trú của gan trong các tình huống không thể phẫu thuật và chức năng gan còn tốt, bước đầu cho một số thành tựu khả quan.

– Sử dụng đồng vị phóng xạ Y90 (ytrium-90) và I131 trong một số nghiên cứu và phân tích pha 1 và pha 2 cho một số thành tựu khăng khăng .

 5. Điều trị chi tiết theo giai đoạn bệnh

a. Giai đoạn I, II, IIIA

– Mổ Bụng là phép tắc điều trị chính nếu không có các chống chỉ định như có bướu ngoài gan, bướu lan rộng hoặc do bệnh lý nội khoa đi kèm.

– Mổ Bụng tận gốc đối với ung độc gan nếu tổn thương còn khu trú trong một thùy. Rất có thể cắt rộng bướu, cắt hạ phân thùy, cắt một thùy hay cắt một thùy mở rộng tùy thuộc vào khối bướu. Rất có thể cắt bỏ 80 -85% nhu mô gan nếu nhu mô còn lại tốt. Thực tế chỉ khoảng 20% tình huống có thể phẫu thuật tận gốc. Chống chỉ định khi bướu đa ổ ở hai thùy, thâm nhiễm đến các cơ quan lân cận , thâm nhiễm vào cả hai nhánh của tĩnh mạch cửa, vào tĩnh mạch chủ dưới, xơ gan nặng, suy gan mất bù, báng bụng, di căn xa.

– Đối với ung độc gan nhỏ, Child A, phẫu thuật được chọn đầu tiên . Ở người bệnh Child B hoặc có chống chỉ định phẫu thuật , điều trị tại vùng như đốt bướu bằng sóng cao tần, sóng viba, phẫu đông lạnh và tiêm cồn có thể được  dùng. Bệnh nhân Child C chỉ điều trị biểu hiện .

– Những ung độc gan khu trú không mổ được, Child A, nên điều trị tân cung ứng trước đó hạ thấp giai đoạn và sau đó phẫu thuật cắt bướu. Xạ trị tại chỗ có thể dùng.

– Một tỷ trọng nhỏ ung độc gan không mổ được có thể chuyển thành mổ được giả dụ bướu nhỏ lại.

– Những người bệnh bị ung độc gan đa nốt với Child A và B, TACE là phép tắc tốt nhất. TACE có thể cố dùng trong một số tình huống với bướu thuyên tắc tĩnh mạch cửa. Bệnh nhân Child C chỉ điều trị biểu hiện .

– Ghép gan cho thấy hiệu quả trên ung độc gan nhỏ. Chỉ định của ghép gan (1) người bệnh không thể cắt gan được, (2) bướu 5cm hoặc bé hơn , (3) bướu không xâm lấn huyết mạch lớn, (4) bướu chưa lan ra khỏi gan, chưa di căn hạch, phổi, cơ quan trong bụng và xương.

– Hóa trị toàn thân để cung ứng sau khi cắt hoặc ghép gan ít có hiệu quả .

– Bướu ít hơn 3 bướu và bé hơn 3cm, bơm ethanol vào bướu là khoa học tiện nghi , cải thiện biểu hiện .

– Cột động mạch gan hay làm thuyên tắc động mạch đến bướu có thể làm giảm tổng khối bướu và cải thiện biểu hiện , nhưng không làm thay đổi tiên đoán sống còn.

 b. Giai đoạn IIIB – IV

– Rất ít khi có chỉ định phẫu thuật trong giai đoạn IIIB, IIIC. Trong tình huống người bệnh không thể phẫu thuật được thường được hóa trị bằng 5 FU đơn chất. Bơm vào động mạch gan Lipiodol hay Adriamycin có thể có đáp ứng . Rất có thể xét lại tài năng phẫu thuật trong tình huống bướu đáp ứng với các giải pháp điều trị tân cung ứng , như phép tắc thuyên tắc mạch.

– Một vài phương thuốc khác như Doxorubicin, Cisplatin, Mitomycin C dùng đường toàn thân cũng cho tỷ trọng đáp ứng khách quan. Đa hóa trị có thể cho đáp ứng tốt hơn nhưng độc tính thường nặng nề.

– Xạ trị ít được dùng do mô gan chịu tia rất kém. Xạ trị hoàn toàn gan (21 – 32Gy) để giảm đau, hoặc xạ trị vào các địa điểm di căn như não, xương, hạch nhằm mục đích giảm đau.

DỰ PHÒNG

Tiêm ngừa vắc xin viêm gan siêu vi B cho trẻ lọt lòng . Kết quả của chương trình chủng ngừa viêm gan siêu vi B cho thấy tần suất ung độc gan ở con nít được tiêm chủng giảm.

Phòng ngừa xơ gan và ung độc gan trên người bệnh viêm gan siêu vi B và C gây bằng interferon (IFN). Nhiều thành tựu nghiên cứu và phân tích đã cho thấy IFN làm giảm tần suất ung độc gan ở những người bệnh có nhiễm siêu vi B hoặc C.

Item :497

Pisani và cộng sự ghi nhận tử vong do ung thư gan toàn cầu trong năm 1990 là 427.000 người. Ung thư gan là nguyên nhân gây tử vong đứng hàng thứ tư trong các bệnh u

Ngày viết:
Ga chống thấm Cotton là trang web chuyên chia sẻ kiến thức và kinh doanh sản phẩm Ga Chống Thâm Cotton 100% uy tín tại Việt Nam, với mong muốn đưa sản phẩm hàng Việt tới tay người tiêu dùng