Sử dụng kháng sinh dự phòng nhiễm khuẩn trong phẫu thuật

Đánh giá

Sử dụng kháng sinh dự phòng nhiễm khuẩn trong phẫu thuật

Giới thiệu 

Từ khi kháng sinh đầu tiên được phát hiện là Penicillin đến giờ đã có hàng trăm kháng sinh cũng giống như các thuốc gần giống được thành lập và được đưa vào sử dụng.

Kháng sinh là gì?

Kháng sinh là một nhóm thuốc khác nhau vì việc sử dụng kháng sinh không chỉ ảnh hưởng tới bản thân bệnh nhân mà còn ảnh hưởng tới tập thể . 

Tình trạng sử dụng kháng sinh bây chừ ở Việt Nam

Ở Việt Nam các bệnh lý về nhiễm khuẩn chiếm tỉ lệ cao về cả tỉ lệ mắc và tỉ lệ tử trận . Các hoạt động của loài người , việc sử dụng rộng rãi, kéo dài và lạm dụng, chưa hợp lý, an toàn làm tăng thêm số lượng vi khuẩn cũng giống như làm tăng khả năng đề kháng kháng sinh của chúng. Do đó việc sử dụng nhóm thuốc này đúng cách và hiệu suất cao là luận điểm mà cả tập thể đều quan tâm.

Kháng sinh không chỉ được sử dụng khi bệnh nhân mắc các bệnh nhiễm khuẩn mà còn được sử dụng trong các tình huống chặn đứng quá trình nhiễm khuẩn có thể xảy ra cho bệnh nhân sau khi phẫu thuật .

Điều kiện vệ sinh môi trường nước ta bây chừ còn kém, vì vậy việc sử dụng kháng sinh dự phòng là đề xuất trong phẫu thuật .

Nguyên tắc sử dụng kháng sinh dự phòng nhiễm khuẩn trong phẫu thuật

Việc sử dụng kháng sinh dự phòng trong nhiễm khuẩn để đạt được hiệu quả cao cần phải sử dụng hợp lý và tuân thủ đúng các nguyên tắc.

Các nguyên tắc khi sử dụng kháng sinh dự phòng:

Việc sử dụng kháng sinh chỉ là một trong những biện pháp góp phần làm giảm tỉ lệ nhiễm khuẩn chứ không phải biện pháp duy nhất . Do đó cần phải cấu kết với các biện pháp hỗ trợ như:

  • Kỹ thuật phẫu thuật tận tường và giảm thiểu thương tổn mô.
  • Môi trường bệnh viện và phòng phẫu thuật hứa hẹn vệ sinh.
  • Khử trùng khí cụ phẫu thuật , bông băng, quần áo, vệ sinh cá nhân của bệnh nhân.
  • Kiểm soát đường huyết mục tiêu.

Dự phòng kháng sinh nên được dùng cho các tình huống :

  • Các phẫu thuật có tỉ lệ nhiễm trùng cao sau phẫu thuật .
  • Khi cấy ghép các vật lạ.

Các kháng sinh sử dụng dự phòng có phổ đủ rộng, tác dụng được lên hầu hết các tác nhân gây bệnh hay gặp nhất trong loại phẫu thuật đó.

Thời điểm đưa kháng sinh

Nên đưa kháng sinh trước lúc rạch dao nhưng không tiêm sớn hơn 2 giờ so với thời điểm phẫu thuật . Kiểm soát liều đầu tiên của kháng sinh khởi đầu từ 30 – 60 phút trước khi phẫu thuật , tuy nhiên, phải hứa hẹn nồng độ kháng sinh trong huyết thanh và mô trong suốt khoảng thời hạn có thể bị nhiễm khuẩn. Các bệnh nhân béo phì ( 120kg ) cần được sử dụng kháng sinh liều tốt hơn .

Trong phần lớn tình huống Chỉ việc sử dụng 1 liều kháng sinh là đủ. Việc sử dụng thêm kháng sinh chỉ trong một số tình huống như khi ca phẫu thuật kéo dài hoặc liên quan tới các tình huống mất máu nhiều ( > 1,5L).

Không có bằng chứng về việc hỗ trợ sử dụng kháng sinh sau phẫu thuật .

Mỗi đơn vị được khuyến khích xây dựng 1 chỉ dẫn sủ dụng kháng sinh dự phòng thích hợp với điều kiện Quanh Vùng mình.

Lựa chọn kháng sinh dự phòng trong phẫu thuật

Ưu tiên sử dụng trong dự phòng phẫu thuật là các cephalosporin thế hệ 1,2. Thường sử dụng là cefazolin, cefotetan.

Không khuyến cáo sử dụng các cephalosporin thế hệ 3 do: 

  • Tác nhân gây bệnh chủ chốt là tụ cầu hoặc E.coli. Với các loại tác nhân này Chỉ việc cephalosporin thế hệ 1,2 là đủ. Cephalosporin thế hệ 3 có phổ kháng khuẩn rộng do đó không quan trọng .
  • Cephalosporin thế hệ 3 là nhóm kháng sinh quý được dùng cho nhiều loại nhiễm khuẩn xuất hiện tại bệnh viện, nếu sử dụng sẽ dễ làm tăng khả năng đề kháng kháng sinh của vi khuẩn, làm mất khả năng chữa trị khi bệnh nhân mắc các bệnh nhiễm khuẩn đe dọa tính mạng ( như nhiễm khuẩn huyết, viêm màng não…)

Khi bệnh nhân dị ứng với penicillin thì kháng sinh sửa chữa thay thế có thể sử dụng là gentamicin hoặc Clindamycin.

Một số nghiên cứu lâm sàng khẳng định hiệu suất cao sử dụng kháng sinh dự phòng.

Nghiên cứu lâm sàng khẳng định ảnh hưởng của việc sử dụng kháng sinh dự phòng tới việc chữa trị tại chỗ nhiễm khuẩn sau phẫu thuật đào thải khí cụ chỉnh hình được sử dụng trong chữa trị các vết nứt chân, mắt cá chân và chân dưới: thể nghiệm trên 500 bệnh nhân tuổi từ 18 đến 75. Nhóm 1 ( 228 bệnh nhân) với liều sử dụng 1000 mg cefazolin, nhóm 2 ( 242 bệnh nhân) sử dụng NaCl 0.9%. thành tựu cho thấy chỉ 1 tình huống duy nhất sử dụng cefazolin không có hiệu suất cao so với sử dụng NaCl.

Nghiên cứu lâm sàng sử dụng kháng sinh dự phòng chữa trị nhiễm khuẩn trong phẫu thuật trực tràng sạch, có khả năng nhiễm khuẩn và phẫu thuật bẩn: nghiên cứu tiến hành trên 95 bệnh nhân trên 18 tuổi được chia thành các nhóm: có sử dụng kháng sinh đường uống và không sử dụng kháng sinh đường uống. Kết quả cho thấy: việc sử dụng kháng sinh đường uống làm giảm đáng kể các nhiễm trùng phẫu thuật và giảm thiểu tỉ lệ nhập viện trong các loại phẫu thuật trực tràng.

Để hứa hẹn việc sử dụng thuốc hợp lý, cần nắm rõ những tri thức liên quan đến kháng sinh, vi khuẩn gây bệnh và người bệnh .

Copy ghi nguồn TrungTamThuoc.com

Link bài viết: Sử dụng kháng sinh dự phòng nhiễm khuẩn trong phẫu thuật

Item :103

Việc sử dụng kháng sinh như con dao 2 lưỡi. Nếu dùng đúng cách sẽ có tác dụng rất tốt nhưng nếu lạm dụng, dùng không đủ liều,.sẽ gây lại hậu quả nghiêm trọng cho cả

Ngày viết:
Ga chống thấm Cotton là trang web chuyên chia sẻ kiến thức và kinh doanh sản phẩm Ga Chống Thâm Cotton 100% uy tín tại Việt Nam, với mong muốn đưa sản phẩm hàng Việt tới tay người tiêu dùng