Định nghĩa về thời kỳ sau mổ
Thời kỳ sau mổ là thời gian được tính từ thời điểm kết thúc cuộc mổ đến khi bệnh nhân hồi phục tài năng lao động. Thời kỳ sau mổ chia làm 2 giai đoạn:
– 24h đầu: thời gian thoát mê
– sau 24h: thời gian chăm sóc tại khoa
Vận chuyển người bệnh , chỉnh sửa phong thái
Sau mổ khi đổi phong thái , di chuyển bệnh đôn hậu bàn mổ sang xe đẩy hay gường bệnh cần phải nhẹ nhõm . Thay đổi phong thái đột ngột có thể gây tụt áp huyết , trụy mạch, choáng. Trong giải phẫu chỉnh hình nếu di chuyển người bệnh không đúng cách hoặc thô bạo có thể gây tác động đến sự thắng lợi của cuộc giải phẫu . Do đó tốt đặc biệt là đặt xe chuyển người bệnh cạnh bàn mổ và chuyển người bệnh thật nhẹ nhõm sang xe đẩy. Trong toàn bộ các trường hợp giải phẫu bệnh nhnhiệt tình có thể dùng loại tấm ra vải kê dưới lưng người bệnh để khi chuyển bệnh đôn hậu bàn mổ qua xe hay giường ta Chỉ việc khiêng tấm vải đã đặt dưới lưng người bệnh , như vậy rất nhẹ nhõm và rất dễ dàng .
Chăm sóc bệnh nhân ngay sau phẫu thuật thông thường
Chuẩn bị giường, phòng người bệnh
Giường nằm phải êm, cứng cáp , dễ chịu , giường có thể đặt phong thái đầu cao, phong thái Fowler, phong thái đầu thấp. 2 bên thành giường nên có thanh kiểm soát an ninh , tránh những trường hơp người bệnh chưa tự chủ được có thể tự lăn mình rơi xuống đất
Trời rét phải có đủ chăn ấm, có túi nước nóng đặt xung quanh , có thể dùng máy sưởi, sắp xếp sẵn các đệm hơi nóng….
Mùa nóng phòng phải thoáng và tốt nhất có máy điều hòa….
Nếu người bệnh chưa tỉnh, phản xạ ho chưa có phải đặt người bệnh nằm nghiêng đầu sang một bên hoặc người bệnh nằm ngửa có một gối mỏng lót dưới vai cho cổ và đầu ngửa ra sau. Và phải có điều dưỡng theo dõi sát, khác lạ không nên để người bệnh nằm một mình khi người bệnh thật sự chưa tỉnh.
Theo dõi dấu hiệu tồn tại
Hô hấp: tần số thở, biên độ hô hấp, độ bão hoà oxy theo mạch đập (SpO2), màu da, niêm mạc.
Tuần hoàn: mạch, nhịp tim, áp huyết , sức ép tĩnh mạch trung ương.
Thần kinh: bênh nhân tỉnh hay mê. Nếu người bệnh chưa tỉnh cần được theo dõi sát và đặt người bệnh ở phong thái như đã hướng dẫn ở trên.
Theo dõi mạch, nhiệt, áp huyết , nhịp thở 15-30 phút một lần cho đến khi ổn định (áp huyết trên 90/60mmHg), kế tiếp mỗi giờ một lần.
Tất cả trường hợp giải phẫu cần theo dõi sát: rối loạn hô hấp, rối loạn tuần hoàn, tím tái, chảy máu ở vết thương…
Ngày nay tại các phòng lai tỉnh có các công cụ theo dõi bằng monitoring… nhưng phải thăm khám , đánh giá thật kỹ không nên hoàn toàn tin cậy vào các chỉ số trên màn hình monitor.
Động viên tinh thần và cho người bệnh vận động sớm
Thực hiện y lệnh nằm tại giường hoặc vận động . Thường sau gây mê người bệnh phải được day trở mỗi 30 phút cho đến khi tự cử động được.
Tập thở sâu, tập ho, tập cử động hai chân, hai tay sớm để tránh các biến chứng.
Động viên tinh thần cho người bệnh , tạo cho người bệnh cảm giác an tâm . Tránh cho người bệnh những lo âu không đáng có, để người bệnh có tinh thần tốt nhất vượt qua bệnh tật .
Theo dõi BILAN nước
Ghi lại lượng dịch vào, ra trong 6 giờ, tính bilan dịch vào ra. Trong một số trường hợp cần tính bilan dịch vào ra mỗi 3 giờ và trong 24 giờ
Cho y lệnh nhịn hay phương pháp ăn uống sớm.
Nên cân người bệnh trong một số trường hợp quan trọng .
Theo dõi nước giải
Theo dõi lượng nước giải , màu sắt nước giải sau mổ, khác lạ một số trường hợp bệnh nặng hoặc chưa có nước giải 6- 8 giờ sau mổ, cần phải khám xét kỹ lâm sàng và cận lâm sàng để có hướng điều trị tốt nhất cho người bệnh ..
Theo dõi ống dẫn lưu
Phải có chỉ thị theo dõi các ống dẫn lưu nước giải , lồng ngực, bụng từ 1-2 giờ một lần. Trường hợp khác lạ cần phải theo dõi các rối loạn về hô hấp, chảy máu ở vết thương, vết mổ hay máu chảy qua ống dẫn lưu.
Giảm đau sau mổ
Dự phòng và điều trị đau sau mổ là một vấn đề lớn trong để mắt sau mổ, nhiều khoa học có thể vận dụng tuỳ theo mức độ đau mô tả thông tin được mà có thể vận dụng riêng rẽ hay phối hợp các khoa học .
Cần nhớ rằng thuốc giảm đau nên được cho theo giờ không đợi đến lúc hiện ra cảm giác đau mới tiêm.
Tìm hiểu mức độ đau là dựa dẫm lâm sàng, dùng thang điểm mô tả thông tin EVA (Echelle visuelle analogique) hoặc mô tả thông tin định tính (đau ít, đau vừa, đau nhiều, đau không chịu nổi).
Các thuốc có thể dùng hiện giờ :
- Paracetamol: Prodafalgan 1g, dùng liều 15mg/kg/6giờ không dùng quá 6g/ngày.
- Prodafalgan là tiền chất của paracetamol sau khi tiêm 1g prodafalgan sẽ bị thuỷ phân cho 0,5g paracetamol.
- Diclofenac (Voltarene 75mg) liều lượng 3mg/kg/ngày.
- Morphine được sử dụng sau các giải phẫu mà mức độ đau nhiều, vẫn còn đau nhiều sau khi dùng các thuốc giảm đau như trên.
Bậc thang dùng thuốc giảm đau của Tổ chức y tế quả đât :
I. Không thuộc nhóm thuốc phiện: aspirine, paracetamol.
IIa. Thuốc phiện tác dụng yếu: codeine (Dafalgan codeine), dextropropoxyphen (Diantalvic).
IIb. Thuốc phiện tác dụng nhàng nhàng : temgésic, nubaine, topalgic, contramal.
IIIa. Thuốc phiện tác dụng mạnh: morphine, fentanyl.
IIIb. Thuốc phiện dạn dĩ g tiêm: morphine.
Dinh dưỡng sau mổ
Giai đoạn đầu
Quan điểm trước kia, chưa cho người bệnh ăn bằng đường tiêu hoá ở giai đoạn này, chờ người bệnh trung tiện được mới bắt đầu cho ăn, cơ bản bù nước, điện giải, giúp sức glucid, bảo đảm đủ lượng calo quan trọng nuôi dưỡng thân thể . Ngày nay, người ta thấy rằng cho ăn muộn không hữu ích cho người bệnh . Nửa đời sống của tế bào ruột là 24 giờ, nếu không cho ăn đường ruột sớm thì các tế bào này sẽ có thể bị hoại tử và hệ vi khuẩn đường ruột sẽ thẩm lậu qua ruột vào máu. Nuôi dưỡng đường ruột sớm còn đưa lại nhiều lợi ích khác cho người bệnh . Vì vậy, các nhà khoa học đã tiến hành nuôi dưỡng sớm bằng đường tiêu hoá ngay từ giờ trước tiên nếu giải phẫu không can thiệp vào đường tiêu hoá. Nếu giải phẫu vào đường tiêu hoá thì cho ăn uống ngay sau khi có trung tiện.
Giai đoạn giữa
Cho ăn tăng dần và giảm dần truyền tĩnh mạch. Khẩu phần tăng dần năng lượng và protein. Bắt đầu từ 500Kcal và 30g protein, kế tiếp cứ 1-2 ngày ngày càng tăng 250-500Kcal cho đến khi đạt 2.000Kcal/ngày.
Ăn sữa, nên dùng dưới dạng sữa pha nước cháo. Nên dùng sữa bột loại đã tách bơ, sữa đậu nành. Cho ăn làm nhiều bữa (4 – 6 bữa). Ăn thức ăn mềm, hạn chế thức ăn có xơ. Dùng các loại thức ăn có nhiều vitamin B, C như nước cam, chanh…
Giai đoạn bình phục
Chế độ ăn giúp sức toàn diện năng lượng và protein để tăng mạnh thể trọng và vết thương mau lành. Đây là phương pháp ăn nhiều protein và năng lượng . Protein có thể tới 120-150g/ngày và năng lượng có thể tới 2.500-3.000 Kcal/ngày. Khẩu phần này phải được tạo thành nhiều bữa trong ngày (5-6 bữa hoặc hơn). Dùng nhiều sữa, trứng, thịt, cá, đậu đỗ để giúp sức chất đạm và các loại hoa quả để tăng vitamin C và vitamin nhóm B.
Copy ghi nguồn TrungTamThuoc.com
Link Post bài viết :https://trungtamthuoc.com/n/cham-soc-benh-nhan-sau-phau-thuat-n879.html
Tài liệu tham khảo
1. Bài giảng chăm sóc bệnh nhân sau mổ; Ths. Bs. Hoàng Tuấn; Bệnh viện Thống Nhất.
2. “Chăm sóc người bệnh ngay sau giải phẫu thông thường và một số biến chứng sớm thường xuyên “; BSCK I. Nguyễn Hữu Anh; Bệnh viện đa khoa tỉnh Quảng Nam.
3. “Phác đồ dinh dưỡng cho người bệnh sau giải phẫu “; Hệ thống bệnh viện Vietlife Clinic.
Item :162
Cuộc mổ thành công tùy thuộc một phần lớn vào sự chăm sóc sau mổ. Giai đoạn ngay sau mổ là giai đoạn có nhiều rối loạn về sinh lý bao gồm các biến chứng về hô hấp, t