Nhu cầu Iod
Iod là 1 chất trọng yếu trong thân thể với 1 lượng rất nhỏ chỉ từ 15 đến 20mg (WHO 1994). Iod giúp tuyến giáp trạng di chuyển đơn giản , phòng bệnh bướu cổ và thiểu năng trí óc . Khoảng 70% đến 80% lượng iod của thân thể ở trong tuyến giáp, còn lại nồng độ iod cao nhất tìm thấy ở tuyến nước bọt , tuyến tiết dịch tiêu hóa và các mô liên minh , chỉ có một lượng rất nhỏ phân bố đều trong tổng số thân thể .
Ảnh hưởng của tiêu thụ thiếu và thừa Iod:
Ảnh hưởng của tiêu thụ thiếu Iod:
Thiếu iod xảy ra ở quá nhiều vùng trên nhân loại , là nguyên do chính của bệnh bướu cổ. Thiếu iod tác động rõ rệt đến phát triển và tạo ra , khác lạ là não bộ. Bệnh bướu cổ cùng với toàn bộ các tác động xấu đến phát triển và tạo ra được gọi là chung là các rối loạn do thiếu iod (iodine deficiency disorders, IDD). Thiếu iod bào thai thường do bà mẹ thiếu iod, và dẫn đến thành quả rất nặng nề là tăng tỷ trọng tử trận trươc hoặc sau khi sinh và chứng đần độn (cretinism).
Ảnh hưởng của thừa iod:
Các tác động của thừa iod rất khác lạ và chân tay vào thực trạng di chuyển của tuyến giáp trạng. Thừa iod trong trường hợp tuyến giáp đơn giản , tuyến giáp sẽ ngừng tổng hợp hormone phát triển (thyroid) cho đến khi có thể thích ứng với mức iod ăn vào cao. Khi tài năng di chuyển của tuyến giáp bị suy yếu, thừa iod sẽ gây bệnh giảm hormone (hypothyroidism). Có trường hợp tuyến giáp hoạt động quá mạnh sẽ có phục vụ trái lại , tổng hợp quá nhiều hormone thyroid, có thể dẫn đến ngộ độc do tiêu thụ quá nhiều iod (thyrotoxicosis).
Nhu cầu dinh dưỡng khuyến nghị cho Iod được ghi trong bảng
Nhóm tuổi |
Iốt (µg/ngày) |
0-6 tháng |
90 |
6-11 tháng |
90 |
Trẻ nhỏ |
|
1-3 tuổi |
90 |
4-6 tuổi |
90 |
7-9 tuổi |
90 |
Nam vị thành niên |
|
10-14 tuổi |
120 |
15-18 tuổi |
150 |
Nữ vị thành niên |
|
10-14 tuổi |
120 |
15-18 tuổi |
150 |
Người trưởng thành |
|
Nam ≥ 19 tuổi |
150 |
Nữ ≥ 19 tuổi |
150 |
Trung niên ≥ 50 tuổi |
|
Nam |
|
Nữ |
|
Phụ nữ có thai |
200 |
Phụ nữ cho con bú |
200 |
Nguồn thực phẩm giúp đỡ Iod:
Sử dụng muối ăn có cung ứng iod hàng ngày là giải pháp chính để phòng chống các rối loạn do thiếu iod. Theo khuyến nghị của WHO/UNICEF/ICCIDD, căn cứ vào mức tiêu thụ muối làng nhàng của người dân, lượng Iod trong muối cần hứa hẹn đúng hàm lượng cho phép từ 20-40ppm vừa hứa hẹn đủ để phòng các rối loạn do thiếu iod mà vẫn an ninh . Tuy nhiên trong thực tiễn người dân không chỉ sử dụng muối ăn mà còn sử dụng nhiều loại nước chấm và gia vị mặn khác (như nước mắm, mắm tôm, ma di, xì dầu, tương, bột gia vị,). Do đó, để đề phòng bệnh cao huyết áp , chỉ nên tiêu thụ kể cả muối iod và các nước chấm hoặc gia vị mặn khác không thật một lượng tương đương với 6 gram muối /ngày.
Hàm lượng iod trong thực phẩm lệ thuộc vào hàm lượng của iod trong đất và nước của nơi tạo ra thực phẩm này. Thực phẩm giàu iod bao gồm cá biển, rong biển. Nếu được cung ứng Iod trong tạo ra và chăn nuôi thì các loại rau, thịt, trứng, sữa và các mặt hàng từ sữa cũng là nguồn Iod đáng kể. Tuy nhiên, điều này Chưa hẳn thuận tiện và trong thực tiễn Việt Nam còn gặp khó khăn trong việc thực hiện .
Vẫn còn thiếu các nghiên cứu khoa học về ý định iod trong nhân dân vùng Đông Nam á, các số liệu trọng lượng tham khảo và mức iod tăng nhanh vào muối cũng giống như mức tiêu thụ muối iod cho người Đông Nam á. Các yếu tố này rất trọng yếu do có sự liên quan giữa hormon phát triển và tỷ trọng chuyển hoá.
Item :78
Iod là một chất cần thiết trong cơ thể với một lượng rất nhỏ chỉ từ 15 đến 20mg (WHO 1994). Iod giúp tuyến giáp trạng hoạt động bình thường, phòng bệnh bướu cổ và th