CHĂM SÓC PHỤ NỮ SAU SINH tin tức tại Chăn sóc sức khẻo sản phụ khoa

Đánh giá

CHĂM SÓC PHỤ NỮ SAU SINH tin tức tại Chăn sóc sức khẻo sản phụ khoa

 I. NHỮNG BIỂU HIỆN LÂM SÀNG CỦA THỜI KÌ HẬU SẢN

 1.1. Sự co hồi tử cung

– Quá trình co hồi tử cung: sau đẻ, chiều cao tử cung giảm xuống còn một nửa đối chiếu trước khi chuyển dạ (tử cung cao trên vệ khoảng 13 cm). tiếp nối trung bình mỗi ngày tử cung co hồi được 1cm, riêng ngày đầu co tốc độ hơn có thể được 2 – 3 cm. Sau 13 – 15 ngày thường không sờ được tử cung ở trên khớp vệ nữa.

–  Hiện tượng cố nhiên : cơn đau bụng vùng tử cung hình thành trong những ngày đầu sau đẻ do tử cung có những cơn co bóp mạnh để tống máu cục và sản dịch ra ngoài. Mức độ đau: thuộc cấp cảm hứng của từng người. Thường đẻ càng nhiều lần thì càng đau vì chất lượng cơ tử cung yếu dần, tử cung càng cần phải co bóp mạnh hơn các lần trước để đẩy máu cục và sản dịch ra ngoài.

–     Trong những ngày đầu sau đẻ cần theo dõi sự co hồi tử cung bằng cách đo chiều cao tử cung hàng ngày cho sản phụ: đo từ điểm giữa bờ trên xương mu tới đáy tử cung.

–     Quá trình co hồi tử cung diễn ra khác lạ giữa các sản phụ. Người ta nhận thấy:

+   Ở người con so, tử cung co hồi tốc độ hơn ở người con rạ.

+   Ở người đẻ thường, tử cung co hồi tốc độ hơn ở người mổ đẻ.

+   Người cho con bú, tử cung co hồi tốc độ hơn người không cho con bú.

+     Trường hợp bí đái, táo bón, thân tử cung bị đẩy lên cao, sự co hồi tử cung sẽ bị chậm lại.

Trên lâm sàng nếu thấy tử cung co hồi chậm, tử cung ấn đau, sốt, sản dịch có mùi hôi thì phải nghĩ tới nhiễm khuẩn hậu sản để chữa trị kịp thời.

1.2. Sản dịch

–   Sản dịch là chất dịch từ tử cung và đường sinh dục chảy ra ngoài trong những ngày đầu của thời kỳ hậu sản .

–     Thành phần của sản dịch: gồm máu cục và máu loãng chảy ra từ niêm mạc tử cung, chủ đạo là vùng rau bám, các mảnh niêm mạc tử cung, các tế bào ở cổ tử cung, tế bào âm đạo bị thoái hóa bong ra.

–   Thời gian ra sản dịch: thường chỉ ra trong 15 ngày đầu sau đẻ. Ở người đẻ con so, người cho con bú, sản dịch hết tốc độ hơn vì tử cung co hồi tốc độ hơn .

–     Số lượng sản dịch: nhiều hay ít chỉnh sửa tùy theo từng sản phụ. Trong 10 ngày đầu, trung bình sản dịch có thể ra tới 1500 ml, ra nhiều vào 2 ngày đầu (ngày trước tiên không quá 300 ml).

–   Tính chất:

+   Màu sắc:

  • Trong 3 ngày đầu, sản dịch gồm toàn máu loãng và máu cục nhỏ nên có màu đỏ sẫm.
  • Từ ngày thứ 4 tới ngày thứ 8, sản dịch loãng hơn, chỉ còn là 1 chất nhầy có lẫn ít máu nên có màu lờ lờ máu cá.
  • Từ ngày thứ 9 trở đi, sản dịch không có màu, chỉ là 1 chất dịch trong.

Nếu sản dịch ra kéo dài hoặc đã hết máu đỏ sẫm, lại ra máu đỏ trở lại và kéo dài phải theo dõi sót rau sau đẻ.

+     Mùi: sản dịch có mùi tanh nồng của máu, pH kiềm. Nếu bị nhiễm khuẩn, sản dịch có mùi hôi và có thể có mủ.

Trên lâm sàng, khoảng 18-20 ngày sau đẻ, sản phụ có thể ra một ít máu qua đường âm đạo, đó có thể là kinh non, do niêm mạc tử cung hồi phục sớm.

1.3. Sự xuống sữa

–   Trong thời kỳ có thai và những ngày đầu sau đẻ, dưới tác dụng của prolactin, sữa được bài tiết , vì thế sản phụ có sữa non, màu vàng nhạt. Số lượng sữa non ít nhưng bộ phận dinh dưỡng cao, chứa hoàn toản các acid amin rất cần thiết , acid béo không no, vitamin và chứa nhiều kháng thể – rất thích hợp với bộ máy tiêu hoá của trẻ sơ sinh trong những ngày đầu.

–     Cần tham vấn các bà mẹ cho trẻ bú sữa non: sau đẻ vài ngày (2 – 3 ngày đối với con rạ và 3 – 4 ngày đối với con so) sẽ có hiện tượng xuống sữa với các đặc điểm : vú căng tức và nóng, mạch nhanh, các tuyến sữa phát hành nhiều, phồng to, các tĩnh mạch dưới da vú nổi rõ. Rất có thể cố nhiên “sốt xuống sữa” với đặc điểm : sốt nhẹ < 38°C, sốt không quá nửa ngày. Các hiện tượng này mất đi sau khi sữa được tiết ra. Nếu sữa đã xuống rồi mà vẫn sốt phải đề phòng nhiễm khuẩn ở tử cung hay nhiễm khuẩn vú.

1.4. Các hiện tượng khác

–     Cơn rét run sau đẻ: ngay sau khi đẻ, sản phụ có thể lên cơn rét run, đó là cơn rét run sinh lý với đặc điểm : mạch, nhiệt độ, huyết áp vẫn định hình . Cần phân biệt với cơn rét run do choáng mất máu .

–     Bí đại tiểu tiện: do chuyển dạ kéo dài, ngôi thai đè vào lạnh nhạt g và trực tràng, do sang chấn phù nề niệu đạo, đau nhiều gây bí đại/ tiểu tiện sau đẻ.

–     Các hiện tượng toàn thân: mạch thường chậm lại sau 5 – 6 ngày mới trở lại đơn giản . Nhịp thở chậm và sâu hơn. Trọng lượng thân thể giảm sút từ 3-5 kg do sự bài tiết mồ hôi, nước đái , sản dịch trong 10 ngày đầu.

–      Kinh trở lại : nếu không cho con bú, sau đẻ 6 tuần bà mẹ có thể có kinh lại lần trước tiên và đó là tín hiệu kết thúc thời kỳ hậu sản . Kỳ kinh nguyệt đầu thường nhiều và dài hơn kỳ kinh đơn giản . Nếu cho con bú, kinh nguyệt có thể trở lại khá chậm .

II. NHỮNG NỘI DUNG CẦN CHÚ Ý

3.1. Chăm sóc ngay sau đẻ

–     Trong 2 giờ đầu ngay sau khi đẻ, cần theo dõi thực trạng toàn thân của mẹ để phát hiện sớm thực trạng choáng sản khoa hoặc choáng mất máu . Theo dõi mạch, đo huyết áp , xoa đáy tử cung qua thành bụng để xác định khối an ninh của tử cung sau đẻ, thuyết trình lượng máu chảy qua âm đạo 15 phút một lần, ít nhất trong quá trình 1 giờ sau đẻ.

–     Cần phát hiện sớm đờ tử cung và chảy máu sau đẻ để xử trí kịp thời. Ngay sau khi đẻ, tử cung co chặt lại, đáy tử cung ở dưới rốn để phân thành khối an ninh . Nếu khám thấy mất khối an ninh , tử cung mềm nhão, hoặc tử cung to ra, đáy tử cung cao dần lên trên rốn là có máu chảy đọng lại trong buồng tử cung.

–     Cần thuyết trình lượng máu chảy sau đẻ. Nguyên nhân chảy máu sau đẻ có thể do sót rau, đờ tử cung hoặc chấn thương đường sinh dục. Máu có thể chảy ra ngoài qua đường âm đạo hoặc đọng lại trong buồng tử cung mà không chảy ra ngoài.

–     Đảm bảo những điều kiện vệ sinh tốt cho sản phụ: buồng chữa trị phải sạch sẽ, yên ổn , thoáng mát thích hợp với từng mùa. Phải có buồng chữa trị cách ly cho những sản phụ bị các bệnh nhiễm khuẩn, bệnh lây nhiễm để tránh sự lây chéo giữa các sản phụ.

–   Chăm sóc về ý thức

+     Cuộc đẻ là 1 biến động lớn về phẫu thuật và sinh lý, đồng thời cũng là 1 biến động về mặt tình cảm , cuộc sống của người phụ nữ , nhất là với những cuộc đẻ không theo ý muốn người mẹ. Vì vậy, chăm bẵm hậu sản cần phải được nhiệt tình một cách để mắt tới về mọi mặt.

+     Cần để mắt tới chăm bẵm , cổ vũ sản phụ, giải thích cho sản phụ yên tâm , không lo sợ sau cuộc đẻ, khác lạ là ở những cuộc đẻ không thích hợp ý muốn của trái đất .

2.2.  Theo dõi sản phụ trong thời kỳ hậu sản

2.2.1.  Theo dõi thực trạng toàn thân

–     Theo dõi sát mạch, nhiệt độ, huyết áp khác lạ trong vòng 6 giờ đầu sau đẻ để phát hiện thực trạng chảy máu, tránh để tình tiết xấu cho sản phụ.

–     Nói chung trong vòng 24 giờ đầu phải khác lạ để mắt tới theo dõi sự chảy máu. Các ngày sau cần để mắt tới tới mạch, nhiệt độ để kịp thời phát hiện sớm các tín hiệu của nhiễm khuẩn hậu sản .

2.2.2.  Theo dõi sự co hồi tử cung

–   Từng Ngày sờ, nắn, đo chiều cao tử cung trên khớp vệ để thuyết trình :

+   Sự co hồi tử cung tốt hay xấu.

+   Mật độ tử cung chắc hay mềm.

+   Tử cung đau hay không đau khi sờ nắn.

–   Nếu tử cung co hồi chậm, tỷ lệ mềm, ấn đau là tử cung bị nhiễm khuẩn, cần phải được chữa trị sớm.

2.2.3.  Theo dõi sản dịch

–   Từng Ngày theo dõi sản dịch bằng cách xem băng vệ sinh của sản phụ để thuyết trình :

+   Số lượng sản dịch nhiều hay ít hoặc không có sản dịch (bế sản dịch).

+     Màu sắc: sản dịch đỏ trong 3 ngày đầu, từ ngày thứ 4 đến ngày thứ 8 có màu lờ lờ máu cá, tiếp nối hết máu mà chỉ có một chất dịch, đến ngày trước tiên 5 trở đi hầu như hết sản dịch.

+   Mùi sản dịch không hôi, nếu có mùi hôi là có nhiễm khuẩn ở tử cung.

2.2.4.  Theo dõi đại, tiểu tiện

–     Sau đẻ sản phụ thường bị bí tiểu, táo bón do thực trạng liệt ruột hoặc giảm nhu động ruột và liệt cơ lạnh nhạt g.

–     Nếu sau đẻ 12 giờ mà sản phụ không tự đi tiểu được mặc dầu đã được chữa trị nội khoa như: xoa vùng lạnh nhạt g, chườm nóng, châm cứu… thì phải thông lạnh nhạt g, tiếp nối bơm vào lạnh nhạt g 5-10ml dung dịch Glycerin borat 5% để kích thích sự co bóp của lạnh nhạt g. Nếu vẫn chưa tự đi tiểu được thì các ngày sau phải rửa lạnh nhạt g, tiếp nối bơm Glycerin borat vào cho đến bao giờ sản phụ tự đi tiểu được.

–     Nếu sản phụ bị táo bón cần cho thuốc nhuận tràng , khuyên sản phụ nên vận động sớm. Sau 3 ngày không đi ngoài được phải thụt tháo phân hoặc bơm Microlax vào trực tràng. Chú ý, đối với sản phụ sau đẻ không được dùng thuốc tẩy mạnh.

2.3. Chăm sóc sản phụ trong thời kỳ hậu sản

2.3.1.  Làm thuốc tầng sinh môn và vùng âm hộ hàng ngày

–     Rửa sạch vùng âm hộ , tầng sinh môn và hậu môn cho sản phụ ít nhất 2 lần/ ngày bằng nước chín hoặc dung dịch sát khuẩn nhẹ (Betadin, Providine), tiếp nối lau khô, thay khố vô khuẩn.

–   Không được thụt rửa âm đạo vì cổ tử cung trong những ngày đầu sau đẻ chưa đóng lại, nước có thể qua cổ tử cung vào buồng tử cung gây nhiễm khuẩn ngược dòng.

–   Đối với những trường hợp có cắt, khâu tầng sinh môn, sau khi làm thuốc phải thấm khô, đóng khố sạch.

2.3.2.  Chăm sóc vú

–   Luôn luôn giữ cho vú và đầu vú sạch sẽ để tránh nhiễm khuẩn, nứt kẽ đầu vú.

–   Khuyên sản phụ cho trẻ bú sớm ngay sau đẻ để kích thích bài tiết sữa và làm cho tử cung co hồi tốt hơn (do phản xạ đầu vú – tuyến yên).

–     Nếu có hiện tượng tắc tia sữa, cần phải dùng mọi cách để thông ngay như: day, vắt sữa hoặc hút sữa để đề phòng tắc tia sữa dẫn đến áp xe vú.

–   Nếu có nứt kẽ đầu vú: ngừng cho bú bên đó, rửa sạch đầu vú, thấm khô và bôi Glycerin borat 5%.

2.3.3.  Tắm rửa cho sản phụ

–   Lau mình bằng nước ấm từ ngày thứ 2 sau đẻ hoặc có thể tắm vào ngày thứ 3 sau đẻ bằng cách dội nước.

–   Không tắm ở nơi có gió lùa, ngâm mình trong bồn nước vì cổ tử cung còn mở.

2.4.Tư vấn cho sản phụ trong thời kỳ hậu sản

2.4.1.  Nuôi con bằng sữa mẹ

–   Cần nêu lợi ích của việc nuôi con bằng sữa mẹ:

+   Lợi ích cho trẻ khi được bú sữa mẹ:

  • Luôn là nguồn dinh dưỡng tuyệt hảo , thích hợp cho trẻ nhất là sữa non sau sinh.
  • Dễ tiêu hóa và ít gây dị ứng
  • Chứa nhiều chất kháng thể để giúp trẻ kháng lại nhiều bệnh tật nhất là trong những ngày tháng đầu đời.
  • Sữa mẹ chỉnh sửa trong từng thời đoạn thích hợp với nhu cầu dinh dưỡng và phát hành của trẻ sơ sinh .

+   Lợi ích cho mẹ khi cho con bú:

  • Giúp tử cung trở lại kích thước và hình dạng đơn giản như trước khi mang thai.

Cho con bú cũng có thể giúp tử cung co bóp và vứt bỏ các mặt hàng còn sót lại như nhau thai và màng nhầy, và giúp sớm kết thúc hiện tượng chảy máu âm đạo sau sinh.

  • Làm giảm tài năng phát hành ung độc buồng trứng và ung độc vú thời đoạn tiền mãn kinh.

+   Lợi ích cho cả mẹ và con: cho con bú giúp phát hành sự kết nối tình cảm giữa mẹ và bé.

Chỉ người mẹ mới có thể làm công việc cho con bú và đây sự thật là 1 mối liên kết linh nghiệm mà không ai có thể san sẻ được.

–   Hướng dẫn cho bà mẹ:

+   Cho bú sớm sau sinh trong vòng 1h sau đẻ để tận dụng nguồn sữa non.

+   Cho con bú đúng phong độ .

+   Cho trẻ bú theo nhu cầu .

+     Cai sữa khi trẻ 24 tháng trở lên, không được cai khi trẻ đang ốm. Trong trường hợp cần cai sớm thì cũng chỉ nên cai sữa khi trẻ được 12 tháng.

+   Trong vòng 6 tháng đầu cho trẻ bú hoàn toàn bằng sữa mẹ, không cho trẻ ăn thêm thức ăn khác, không cần cho trẻ uống nước.

+   Vệ sinh núm vú trước và sau khi cho bú.

2.4.2.  Chủ động tránh thai

–   Cần nêu tnguy nan của việc có thai trở lại sớm sau đẻ:

+   Sức khoẻ bà mẹ chưa hồi phục đã phải mang thai tiếp theo.

+   Con đẻ trước và thai nhi trong bụng mẹ lần này đều không được nuôi dưỡng chăm bẵm tốt.

+   Khoảng cách hai lần đẻ dưới 24 tháng thì tỷ trọng tử vong trẻ mỏ sẽ tăng lên .

+   Nếu phá thai cũng nguy nan hơn vì dễ có tai biến và lâu lại người , ảnh hưởng đến chăm bẵm nuôi dưỡng con còn bé.

–   Hướng dẫn cho bà mẹ một số giải pháp tránh thai thích hợp trong quá trình ngay sau đẻ và đang nuôi con bú:

+   Biện pháp cho bú vô kinh: cho con bú sữa mẹ có thể kéo dài thời gian hình thành trở lại kinh nguyệt, vì thế có thể chủ động tránh thai an ninh và hiệu suất cao .

+   Dùng bao cao su.

+   Viên thuốc tránh thai chỉ có progestin.

+   Các phương thuốc tránh thai tiêm hay cấy dưới da.

+   Đặt công cụ tử cung từ 6 tuần lễ sau đẻ.

2.5. Chế độ ăn uống, mặc, vận động của sản phụ trong thời kỳ hậu sản

–   Chế độ ăn: sản phụ sau đẻ phải ăn đủ chất đạm, glucid, lipid, muối khoáng và các vitamin để nuôi dưỡng thân thể tốt, hồi phục năng lực và bảo đảm đủ sữa cho con bú.

Nên ăn nhiều bữa trong ngày, không ăn kiêng khem quá mức. Chỉ kiêng các chất kích thích như rượu, chè, cà phê…

–     Quần áo mặc rộng rãi , sạch sẽ, không mặc áo xống quá chật. Mùa hè cần mặc áo xống mỏng, thoáng, thấm mồ hôi. Mùa đông phải mặc đủ ấm.

–   Ngủ đủ giấc, mỗi ngày sản phụ cần được ngủ ít nhất 7-8 giờ để hồi phục năng lực và bảo đảm đủ sữa cho con bú.

–   Chế độ vận động :

+   Nên cho sản phụ nằm trong 24 giờ đầu sau đẻ nhưng có thể vận động tại giường: trở mình, co duỗi thuộc cấp .

+     Sau 24 giờ, vận động vận động quanh giường. Rất có thể đồng đội dục nhẹ nhàng để tránh táo bón.

–     Một tuần sau đẻ có thể thao tác nhẹ nhàng , tránh công tích nặng, công tích sớm sau sinh vì dễ gây nên sa sinh dục.

2.6. Vấn đề giao phối

–   Không giao phối trong thời kỳ hậu sản vì dễ gây sang chấn và nhiễm khuẩn.

Item :257

Quá trình co hồi tử cung: sau đẻ, chiều cao tử cung giảm xuống còn một nửa so với trước khi chuyển dạ (tử cung cao trên vệ khoảng 13 cm). Sau đó trung bình mỗi ngày

Ngày viết:
Ga chống thấm Cotton là trang web chuyên chia sẻ kiến thức và kinh doanh sản phẩm Ga Chống Thâm Cotton 100% uy tín tại Việt Nam, với mong muốn đưa sản phẩm hàng Việt tới tay người tiêu dùng